Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phù hợp yêu cầu phát triển bền vững

|

Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phù hợp yêu cầu phát triển bền vững

Là một trong những cô;ng nghệ lõi của cuộc cách mạng cô;ng nghiệp lần thứ tư, cô;ng nghệ sinh học đã cho thấy vai trò quan trọng từ những bước phát triển đột phá, mở ra triển vọng đối với mô; hình tăng trưởng mới. Do đó, phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học luô;n nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cả hệ thống chính trị, nhất là trong bối cảnh yêu cầu cao về tăng trưởng bền vững như hiện nay.

Thực trạng phát triển cô;ng nghệ sinh học tại Việt Nam

Cô;ng nghệ sinh học là một lĩnh vực sáng tạo, có tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cô;ng nghiệp, y học, mô;i trường, hóa chất… đặc biệt là với nô;ng nghiệp. Càng ngày, cô;ng nghệ sinh học càng chứng tỏ là một trong những lĩnh vực cô;ng nghệ dẫn đầu cho quá trình chuyển đổi, đóng góp lớn cho quá trình phát triển xã hội theo xu hướng giảm phát thải carbon, góp phần giải quyết các thách thức phi truyền thống như bảo vệ sức khỏe, cung cấp thực phẩm và năng lượng, bảo vệ mô;i trường, an ninh quốc phòng... Tại Việt Nam, với điều kiện khí hậu của nước nhiệt đới, kinh tế đi lên từ nô;ng nghiệp, cô;ng nghệ sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là phát triển bền vững. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò quan trọng của cô;ng nghệ sinh học, từ đó đề ra nhiều chủ trương, chính sách phát triển và ứng dụng thành tựu vào sản xuất và đời sống. Ngay từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII năm 1996 đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HNTW, trong đó nhấn mạnh “đến năm 2020 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng điểm như cô;ng nghệ sinh học…”; Chỉ thị số 50-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IX và Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá XII cũng đưa ra các nội dung về phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp cô;ng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

 

 

Các lĩnh vực về cô;ng nghệ cao trong cô;ng nghệ sinh học cũng đã được Việt Nam xây dựng và triển khai thô;ng qua các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ. Một số quy định có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển cô;ng nghệ sinh học tại Việt Nam đến năm 2030 phải kể đến như: Định hướng xây dựng chính sách phát triển cô;ng nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng); Kế hoạch tổng thể phát triển cô;ng nghiệp sinh học đến năm 2030 (Quyết định số 553/QĐ-TTg ngày 21 tháng 4 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ); gần đây nhất là Nghị quyết số 36-NQ/ TW ngày 30/01/2023 (Nghị quyết 36) của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước… Các văn bản này đã chỉ ra định hướng phát triển tổng thể cô;ng nghệ sinh học thô;ng qua việc tập trung nguồn lực đầu tư phát triển cô;ng nghiệp sinh học, đổi mới cơ chế chính sách, tranh thủ hợp tác và hỗ trợ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư và sản xuất sản phẩm từ cô;ng nghệ sinh học trong các ngành, lĩnh vực và trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ an sinh xã hội, bảo vệ mô;i trường bền vững, đảm bảo an ninh quốc phòng.

Đến nay, cô;ng nghệ sinh học ở Việt Nam đã có những bước tiến bộ nhanh chóng, đạt được nhiều thành tựu quan trọng; ứng dụng ngày càng rộng rãi trong đời sống xã hội, tạo đột phá trong các lĩnh vực nô;ng nghiệp, cô;ng nghiệp chế biến, y dược, mô;i trường; tác động lớn đến sản xuất, đem lại hiệu quả cao trong phát triển kinh tế - xã hội. Cô;ng nghệ sinh học đang trên lộ trình đi lên, khẳng định quy mô; của một ngành cô;ng nghiệp với đội ngũ cán bộ nghiên cứu về cô;ng nghệ sinh học tăng cả về số lượng và chất lượng. Ngành này ngày càng được doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, sản xuất, thương mại hoá sản phẩm cô;ng nghệ sinh học trên một số lĩnh vực với quy mô; lớn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ mô;i trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Điển hình như đối với ngành nô;ng nghiệp Việt Nam, tuy tốc độ phát triển còn chậm so với thế giới nhưng các chuyển biến về ứng dụng cô;ng nghệ sinh học trong vài năm trở lại đây đang ngày càng ấn tượng. Ngành nô;ng nghiệp Việt Nam đã ứng dụng thiết bị cảm biến nhằm số hóa các yếu tố liên quan đến cây trồng như lượng nước, độ ẩm, phân bón hay ánh sáng. Nhờ ứng dụng cô;ng nghệ sinh học theo hướng Cách mạng cô;ng nghiệp lần thứ tư trong lĩnh vực chăn nuô;i, hiện Việt Nam đã tạo ra được giống lợn nhân bản, ứng dụng phương pháp đánh giá di truyền giống của đàn lợn dựa trên giá trị kiểu gen bằng phương pháp BLUP (Best Unbiased Prediction) mà các nước có nền chăn nuô;i lợn tiên tiến đang áp dụng. Hay ứng dụng giúp tạo tô;m càng xanh nhân bản bằng cô;ng nghệ RNA-RNA interferen và định hướng sản phẩm lớn cung cấp cho sản xuất.

Đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ mô;i trường, một thành tố quan trọng của cô;ng cuộc phát triển bền vững, cô;ng nghệ sinh học đã đem lại nhiều giải pháp ưu việt như: Phân hủy các độc chất vô; cơ và hữu cơ; Phục hồi các chu trình trao đổi chất của C, N, P và S trong tự nhiên; Thu nhận các sản phẩm có giá trị ở dạng nhiên liệu hoặc các hợp chất hữu cơ; Xử lý chất thải, như: Xử lý sinh học hiếu khí, xử lý bằng lên men phân hủy yếm khí; Thu nhận các chất có ích từ lên men yếm khí, như: Xử lý các dạng nước thải khác nhau và tái sử dụng chúng để phục vụ cho các ngành cô;ng nghiệp nặng; Xử lý các chất thải cô;ng nghiệp như: Xử lý chất thải cô;ng nghiệp chế biến sữa, xử lý chất thải cô;ng nghiệp dệt; Dùng vi sinh vật để khả năng ăn dầu để xử lí các sự cố tràn dầu hay ô; nhiễm dầu.

Tuy nhiên, phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học tại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới đã chỉ ra rằng: Cô;ng nghệ sinh học hiện nay phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam. Năng lực cô;ng nghệ sinh học chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khoa học - cô;ng nghệ phát triển mạnh mẽ; một số lĩnh vực quan trọng của cô;ng nghệ sinh học lạc hậu so với khu vực và thế giới; cô;ng nghiệp sinh học chưa trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng; đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cô;ng nghệ sinh học còn nhiều hạn chế, bất cập.

Nguyên nhân của những tồn tại được chỉ ra chủ yếu là do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của lĩnh vực này; cơ chế, chính sách chưa phù hợp, thiếu hấp dẫn để thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Nghị quyết 36 cũng chỉ ra rằng việc đầu tư cho phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; mối liên kết giữa các nhà khoa học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp trong phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học chưa hiệu quả, còn lỏng lẻo.

Giải pháp phát triển và ứng dụng thành tựu của cô;ng nghệ sinh học trong bối cảnh mới

Nghị quyết 36 đặt ra mục tiêu tổng quát, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền cô;ng nghệ sinh học phát triển trên thế giới, trung tâm sản xuất và dịch vụ thô;ng minh về cô;ng nghệ sinh học, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á. Xây dựng ngành cô;ng nghiệp sinh học thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, đóng góp tích cực vào GDP cả nước. Mục tiêu đến năm 2030, nền cô;ng nghệ sinh học của Việt Nam đạt trình độ tiên tiến thế giới trên một số lĩnh vực quan trọng, là một trong 10 quốc gia hàng đầu Châu Á về sản xuất và dịch vụ thô;ng minh cô;ng nghệ sinh học; được ứng dụng rộng rãi trong các ngành, lĩnh vực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Xây dựng nền cô;ng nghệ sinh học có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ sở vật chất, tài chính đủ mạnh đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Cô;ng nghiệp sinh học trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng; doanh nghiệp cô;ng nghiệp sinh học tăng 50% về quy mô; đầu tư và quy mô; tăng trưởng, thay thế ít nhất 50% sản phẩm cô;ng nghệ sinh học nhập khẩu; đóng góp 7% vào GDP; bảo đảm nhu cầu thiết yếu của xã hội.

Trong tầm nhìn dài hạn đến năm 1945, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có nền cô;ng nghệ sinh học phát triển trên thế giới, trung tâm sản xuất và dịch vụ thô;ng minh; khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo về cô;ng nghệ sinh học thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á; cô;ng nghiệp sinh học sẽ đóng góp 10-15% vào GDP.

Để đạt được các mục tiêu kể trên, một số nhóm nhiệm vụ, giải pháp được đặt ra đối với lĩnh vực này, đó là:

Thứ nhất, thống nhất nhận thức về phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học trong tình hình mới. Trong đó cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Song song với đẩy mạnh tuyên truyền, việc phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học cần được xác định là một nội dung, nhiệm vụ trong chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.

Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Có chính sách vượt trội, phù hợp để phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học, sản xuất các sản phẩm cô;ng nghệ sinh học có giá trị cao trong các lĩnh vực nô;ng nghiệp, cô;ng nghiệp, y dược, quốc phòng, an ninh… Xây dựng cơ chế bảo đảm mối liên kết, gắn bó giữa các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học; xây dựng, triển khai các chương trình khoa học và cô;ng nghệ trọng điểm cấp quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm cô;ng nghệ sinh học.

Thứ ba, tập trung phát triển, ứng dụng hiệu quả cô;ng nghệ sinh học trong sản xuất và đời sống; phát triển cô;ng nghiệp sinh học thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nghiên cứu và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học trong các lĩnh vực như: Nô;ng nghiệp, cô;ng nghiệp, y tế, bảo vệ mô;i trường. Tập trung xây dựng ngành cô;ng nghiệp sinh học thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hỗ trợ doanh nghiệp cô;ng nghệ sinh học nâng cao năng lực tiếp cận cô;ng nghệ mới, sở hữu trí tuệ; nghiên cứu sản xuất sản phẩm cô;ng nghệ sinh học quy mô; cô;ng nghiệp; xây dựng thương hiệu, thương mại hoá sản phẩm; khai thác, sử dụng hiệu quả các phát minh, sáng chế cô;ng nghệ sinh học có giá trị cao của thế giới, ứng dụng hiệu quả trong cô;ng nghiệp sinh học. Chủ động ứng phó tình huống khủng bố bằng tác nhân sinh học, chiến tranh sử dụng vũ khí sinh học; xử lý chất độc hoá học...

Thứ tư, xây dựng nguồn nhân lực cô;ng nghệ sinh học, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Trong đó, nghiên cứu xây dựng mô; hình đào tạo nhân lực cô;ng nghệ sinh học từ giáo dục phổ thô;ng đến đại học và trên đại học. Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp cô;ng nghệ sinh học, đơn vị sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo nhân lực cô;ng nghệ sinh học. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và nhu cầu thực tiễn, bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu. Chú trọng xây dựng đội ngũ nhà khoa học đầu ngành, hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu có uy tín đạt trình độ quốc tế. Tập trung đầu tư nguồn lực nhằm nâng cao năng lực phát triển và ứng dụng cô;ng nghệ sinh học. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện, sớm đưa các trung tâm cô;ng nghệ sinh học quốc gia ở ba miền Bắc, Trung, Nam vào hoạt động. Hỗ trợ, phát triển các cơ sở ươm tạo cô;ng nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học - cô;ng nghệ, doanh nghiệp ứng dụng cô;ng nghệ sinh học.

Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về cô;ng nghệ sinh học. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cô;ng nghệ sinh học, tuân thủ các điều ước quốc tế có liên quan đến cô;ng nghệ sinh học mà Việt Nam tham gia. Có chính sách mua, chuyển giao, trao đổi cô;ng nghệ sinh học, trong đó quan tâm nghiên cứu, chuyển giao cô;ng nghệ mới, cô;ng nghệ có giá trị cao của thế giới vào Việt Nam; hợp tác nghiên cứu mô; hình phát triển kinh tế sinh học, quản lý tài nguyên, quản lý kinh tế, xã hội bền vững với các quốc gia có trình độ cô;ng nghệ sinh học phát triển./.

 
ThS. Nguyễn Thị Thanh Thủy - ThS. Nguyễn Thị Thu Hà
Trường Đại học Cô;ng nghiệp Hà Nội

Trang web Giải trí Điện tử Esme